Chống mài mòn thiết bị máy móc.

Hệ thống thu hồi giấy vụn

Thiết kế- lắp đặt quạt hút và thổi giấy vụn góp phần bảo vệ môi trường

Dán gạch bể bơi

Sử dụng Vật liệu Devcon (USA) để dán những viên gạch Ceramic/ Granit bị bong hỏng ở thành bên hoặc đáy Hồ bơi.

Thiết bị xử lý bụi

Thiết bị xử lý bụi và xử lý mùi trong sản xuất công nghiệp.

Hệ thống thông gió

Lắp đặt và xử lý Hệ thống thông gió, hút không khí nóng- ẩm tại Công ty CP Giấy Sài Gòn MT.

Xử lý van một chiều

Phục hồi nguyên trạng van một chiều tại nhà máy nước.

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Các rạn san hô sẽ chết vào năm 2100

Theo một đánh giá tổng quan mới về các mô hình khí hậu cơ bản của Viện Khoa học Carnegie ở Palo Alto, California, nếu các xu hướng phát thải CO2 tiếp diễn, gần như tất cả các rạn san hô sẽ biến mất vào năm 2100. 
San hô

Biện pháp duy nhất để duy trì môi trường hóa học hiện tại trong đó các rạn san hô cần để sinh sống, là phải giảm mạnh phát thải trên toàn thế giới. Các kết quả nghiên cứu nêu rõ, cần tích cực loại bỏ CO2 khỏi khí quyển nhờ nỗ lực trồng cây trên diện rộng hoặc bằng loại máy móc nào đó.

Những áp lực kết hợp của tình trạng axit hóa và nước biển ấm lên, cùng với việc đánh bắt quá mức và ô nhiễm ven bờ biển đã tác động mạnh mẽ đến các rạn san hô. Phát thải các bon làm giảm 0,1 độ pH của đại dương, đã gây tác động xấu và cản trở khả năng sinh trưởng của động vật hai mảnh vỏ. Tài liệu cũ về các nạn tuyệt chủng ồ ạt nêu rõ, nước biển bị axit hóa thường đi kèm với tình trạng các rạn san hô bị chết trên diện rộng.

Các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học Carnegie ở Palo Alto, California đã phân tích kết quả của các mô phỏng bằng máy tính được thực hiện bởi 13 nhóm trên toàn thế giới. Các mô hình bao gồm mức độ phản ứng giữa các đặc tính hóa học của nước biển với khí quyển có hàm lượng CO2 cao. Sử dụng các dự đoán bằng mô hình, các nhà khoa học có thể tính số đo hóa học chủ yếu ảnh hưởng đến san hô. Các san hô hình thành vỏ từ aragonit cacbonat hòa tan. Khi CO2 tiếp tục gây axit hóa mạnh mẽ đại dương, các phản ứng hóa học làm thay đổi lượng cacbonnat trong nước biển. Độ bão hòa được cho là dao động từ 3-3,5.

Dữ liệu cổ khí hậu cho thấy, độ bão hòa trong thời kỳ tiền công nghiệp, trước khi ô nhiễm CO2 tích tụ, cao hơn 3,5. Nhóm nghiên cứu đã so sánh dữ liệu này với dữ liệu về vị trí có 6.000 rạn san hô, chiếm 2/3 tổng số rạn san hô trên thế giới. Điều này giúp các nhà khoa học phân tích hóa học về các nơi cư trú rạn san hô trong tương lai.

Lượng CO2 sẽ được thải ra trong những thập kỷ tới, có thể tác động lớn đến các rạn san hô. Trên con đường ít phát thải, tỷ lệ ô nhiễm cacbon giảm và cacbon tích cực được loại khỏi không khí, khoảng từ 77%-87% rạn san hô được phân tích vẫn nằm trong vùng an toàn nhờ độ bão hòa của aragonit trên mức 3.

Hiện nay, độ bão hòa của aragonit giảm xuống dưới 3, đang tác động xấu đến các rạn san hô.
Nguồn NASATI 
Chia sẻ:

Diễn đàn khí sinh học Việt Nam.

Ngày 26/12, tại thành phố Hồ Chí Minh, Hiệp hội Khí sinh học Việt Nam (VBA) và Trung tâm Tiết kiệm năng lượng thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức diễn đàn khí sinh học Việt Nam lần thứ nhất khu vực phía Nam.
Khí sinh học

Phát biểu tại diễn đàn, nhiều nhà khoa học đánh giá, là một quốc gia có thế mạnh với hơn 70% dân số phục vụ kinh tế nông nghiệp, Việt Nam có tiềm năng lớn về sử dụng khí sinh học, tuy nhiên đến nay việc sử dụng loại năng lượng sạch (biogas) này lại chưa hiệu quả.

Theo VBA, công nghệ sản xuất khí sinh học biogas là một trong những chiến lược nhằm giảm ô nhiễm môi trường và lượng khí thải nhà kính. Nguồn nguyên liệu dùng để sản xuất biogas có sẵn như phế thải trong sản xuất và chế biến nông, lâm sản, chất thải từ chăn nuôi… PGS.TS. Dương Nguyên Khang, Đại học Nông lâm TP.Hồ Chí Minh cho rằng, khí sinh học cần được chú ý như một phần quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và cần phải suy nghĩ rằng nguồn khí sinh học không chỉ dùng cho đun nấu. Nếu tận dụng được tốt việc chuyển chất thải hữu cơ thành khí sinh học, sẽ góp phần ngăn chặn ô nhiễm môi trường, tiêu diệt mầm bệnh trong trang trại chăn nuôi và đặc biệt còn dùng để thắp sáng, phát điện,…

 PGS.TS. Bùi Xuân An, Đại học Hoa Sen nhận định, Việt Nam chưa tận dụng được nguồn khí sinh học trong sản xuất là do các công trình này vốn đầu tư lớn, khả năng hoàn vốn lâu trong khi người chăn nuôi đang gặp khó khăn. Trong khi đó, cơ chế chính sách của nước ta hiện nay chưa chú trọng đến việc đưa năng lượng từ khí sinh học vào ngành điện năng, khí thu gom từ hệ thống về dùng không hết thì đốt bỏ đi, đó là sự lãng phí. PGS.TS. Dương Nguyên Khang cho biết thêm, hiện công nghệ xây dựng hệ thống khí sinh học chưa được phổ biến, nên nhiều đơn vị, hộ dân không biết tiếp cận như thế nào.  

Để giải quyết những khó khăn này, VBA cho rằng, Chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp và nông dân về tài chính, đất đai, tín dụng, thuế cũng như kỹ thuật...; xây dựng chiến lược quốc gia về khí sinh học, đồng thời đánh giá lại tiềm năng và xây dựng quy hoạch năng lượng sinh học theo từng vùng.

Hiện nay, tại khu vực phía Nam chỉ có một số ít đơn vị tận dụng hiệu quả khí sinh học làm nguồn năng lượng phục vụ cho sản xuất như: Dự án tận dụng khí biogas đốt lò hơi thay thế dầu FO của Công ty Mía đường Tuy Hòa (Phú Yên); Dự án tận dụng khí biogas để phát điện tại nhà máy bia Sài Gòn (TP.Hồ Chí Minh); Dự án tận dụng khí biogas trong sản xuất của Nhà máy Tinh bột Sơn Hải (Quảng Ngãi), của Công ty Tinh bột sắn Krông Bông (Đắk Lắk). Một số nhà máy sản xuất bột mì ở Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước đang nghiên cứu tận dụng nguồn khí sinh học để ứng dụng cho sản xuất. Riêng tại Đồng Nai, được xem là địa phương tận dụng, khai thác tốt nguồn khí sinh học khi có trên 12.000 công trình khí sinh học các loại, nhưng khả năng tận thu năng lượng chỉ đạt 65%.
Nguồn monre.
Chia sẻ:

12 sự kiện khoa học thế giới nổi bật 2012

Biên tập viên Paul Rincon của Hãng tin BBC (Anh) vừa đúc kết 12 sự kiện khoa học và môi trường nổi bật trong năm 2012. Theo đó, mỗi sự kiện xảy ra từng tháng trong năm.

Tháng 1-2012

Một nhóm các nhà khoa học tại ĐH Khoa học và y khoa Oregon, Mỹ đã thành công vượt mong đợi trong lĩnh vực nghiên cứu tế bào gốc, mở ra triển vọng trong nghiên cứu di truyền học trên con người. Họ tiến hành chiết xuất các tế bào từ trong phôi của sáu cặp khỉ bố mẹ, kết hợp chúng vào một phôi thai duy nhất trong phòng thí nghiệm. Sau đó, phôi thai mới được cấy vào dạ con của khỉ cái. Kết quả là có ba chú khỉ con ra đời, trong đó có Roku (ảnh) và Hex là cặp sinh đôi và chú khỉ còn lại được đặt tên là Chimero.

Khỉ con Roku

Các nhà khoa học Anh phát hiện loài cua “Hoff” có lông rậm ở phần ngực - được lấy theo tên của nam diễn viên người Mỹ David Hasselhoff có bộ ngực trông khá hoàn hảo - là một khám phá quan trọng khác trong tháng 1-2012. Loài cua này “nuôi” vi khuẩn trên bộ lông ngực rậm rạp, sau đó lấy vi khuẩn làm thức ăn. Điều kỳ lạ là chúng sống tràn ngập xung quanh những miệng phun thủy nhiệt có độ sâu khoảng 2,5km dưới vùng biển Nam cực - nơi có nhiệt độ rất nóng khó loài nào có thể tồn tại. Trong năm 2012, cách thức sử dụng tên của nhân vật nổi tiếng để đặt tên cho loài mới phát hiện cũng được áp dụng cho loài cá nước ngọt sinh sống các vùng nước chảy xiết đông bắc nước Mỹ và hóa thạch của loài thằn lằn đã tuyệt chủng cách đây khoảng 65 triệu năm. Cả hai loài này đều mang tên của tổng thống Mỹ Barack Obama, đó là cá Etheostoma obama và thằn lằn Obamadon gracilis.

Tháng 2-2012

Cuối năm 2011, sau khi thực hiện thí nghiệm OPERA, nhóm nhà khoa học tại Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) và Phòng thí nghiệm Gran Sasso ở Ý thông báo đã phát hiện đột phá mới trong lĩnh vực vật lý khi cho rằng các hạt neutrino chuyển động với tốc độ lên tới 300.000,6km/giây, nhanh hơn tốc độ ánh sáng khoảng 6km/giây. Tuy nhiên trong tháng 2-2012, các nhà nghiên cứu mới tìm thấy vấn đề ảnh hưởng đến kết quả của thí nghiệm OPERA. Hóa ra sai lầm chỉ là do kết nối đường cáp không chuẩn. Sự công bố vội vàng này dẫn đến sự từ chức của giáo sư Antonio Ereditato tại CERN, chủ nhiệm dự án OPERA - người đã trực tiếp đo và đưa ra kết quả.

Tháng 3-2012

Nhiệt độ bề mặt sao Thủy cao trên 400 độ C. Do đó, các nhà khoa học vô cùng bất ngờ khi tàu thăm dò Messenger của Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) tìm thấy bằng chứng về sự tồn tại của nước ở dạng băng trên hai cực của sao Thủy.

Một tin khoa học môi trường khác nổi bật trong tháng 3-2012 là lần đầu tiên các nhà khoa học Anh triển khai thí nghiệm trồng giống lúa mì biến đổi gen có thể kháng được rệp tại hạt Hertfordshire, Anh. Tuy nhiên, dự án này không được tiến hành thuận lợi khi trong tháng 5-2012, cảnh sát địa phương phải bắt giữ hàng trăm người biểu tình đang phá hủy cánh đồng lúa mì biến đổi gen khi họ cho rằng chúng có thể gây ra những vấn đề tiêu cực đối với sức khỏe con người và ô nhiễm môi trường xung quanh.

Tháng 4-2012

Các nhà khoa học Hà Lan đã công bố xác nhận về sự tồn tại của hạt Majorana fermions - một loại hạt giống electron có phản hạt riêng của nó. Loại hạt Majorana fermions sẽ mang đến cho con người một ứng dụng trong thực tế, đó là cách thức lưu trữ thông tin đơn giản và hiệu quả hơn trong điện toán lượng tử.

Tháng 5-2012

Một bước tiến mới trong lĩnh vực không gian khi vào tháng 5-2012, Công ty không gian tư nhân SpaceX (Mỹ) đã thực hiện thành công sứ mệnh phóng tàu vũ trụ Dragon mang theo chuyến hàng hóa đầu tiên lên Trạm không gian quốc tế - khởi đầu cho kỷ nguyên hàng không vũ trụ thương mại.

Trong khi đó, các nhà khoa học Thụy Sĩ đã thành công trong việc đánh thức phần “não cột sống” của các con chuột bại liệt bằng cách tiêm các loại hóa chất kết hợp tế bào vào cơ thể chúng, làm các con chuột bị liệt cử động trở lại. Đây một bước tiến lớn trong việc tìm kiếm phương pháp điều trị cho các bệnh nhân bị chấn thương cột sống.

Một nghiên cứu khoa học thành công khác trong tháng 5-2012 khi một nhóm các nhà khoa học quốc tế đã giải mã thành công bộ gen cà chua - có 35.000 gen, mở đường cho nghiên cứu các biện pháp nâng cao hàm lượng dinh dưỡng và tìm ra giống cà chua ngon hơn trong vòng năm năm.

Tháng 6-2012

Ngày 6-6-2012, giới thiên văn học đã tận mắt chiêm ngưỡng được hiện tượng thiên văn xảy ra “lần cuối trong đời người”, đó là sao Kim đi ngang Mặt trời hay còn gọi là “sự đi qua của sao Kim (Venus Transit)” bởi lần kế tiếp xảy ra hiện tượng này là vào ngày 11-12-2117. Kim tinh nằm “chính xác” ngay giữa Trái đất và Mặt trời, sao Kim xuất hiện như một dấu chấm đen tí hon so với ánh sáng chói lòa của Mặt trời. Các nhà khoa học đã 7 lần phát hiện hiện tượng này vào những năm 1631, 1639, 1761, 1769, 1874, 1882 và 2004.

Sao Kim đi ngang Mặt trời

Trong tháng 6-2012, thế giới cũng chú ý đến Hội nghị thượng đỉnh về môi trường Rio 20 tại bang Rio de Janero, Brazil. Gần 100 nguyên thủ quốc gia và thủ tướng chính phủ đã đến dự hội nghị dưới sự chủ trì của Liên Hiệp Quốc. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon kêu gọi chính phủ các nước xóa dần nạn đói trên thế giới và có những cam kết về vấn đề như năng lượng sạch. Tuy nhiên sau ba ngày họp, Rio 20 đã khép lại vào ngày 22-6-2012 nhưng không vạch ra được những mục tiêu và lộ trình cụ thể để hướng tới một sự phát triển bền vững.

Tháng 7-2012

Một loại hạt mới có các đặc điểm tương thích với hạt cơ bản Higgs - hay còn gọi là “hạt của Chúa” - loại hạt tạo nên khối lượng cho vật chất được phát hiện tại Máy gia tốc hạt lớn (LHC) của Tổ chức Nghiên cứu nguyên tử châu Âu (CERN). Đây được xem là hạt cơ bản cuối cùng cần thiết để hoàn thành chuỗi mắc xích trong mô hình chuẩn của vật lý hạt - thuyết cơ bản của vật lý hiện đại mô tả về tính tương tác mạnh, yếu của tất cả các hạt hạ nguyên tử và được dùng để giải thích mọi hiện tượng trong vũ trụ.

Trong khi đó, tại Thế vận hội Olympic London 2012, các nhà khoa học tuyên bố phòng thí nghiệm doping đã được xây dựng và áp dụng công nghệ xét nghiệm “siêu nhanh và nhạy” để phát hiện chất cấm nhằm tạo sự công bằng cho tất cả vận động viên tham dự.

Tháng 8-2012

Robot “Tò mò" của Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) chỉ mất “7 phút kinh hoàng” để đi vào bầu khí quyển sao Hỏa và hạ cánh xuống bề mặt hành tinh này vào ngày 6-8-2012. NASA cho biết mục tiêu của dự án trị giá 2,5 tỉ USD này là đánh giá xem liệu sao Hỏa có tồn tại sự sống hay không. “Sự kiện này đánh dấu một thành tựu công nghệ chưa từng có và là niềm tự hào quốc gia trong nhiều năm tới ” - Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố.

Ngày 25-8-2012, thế giới vô cùng thương tiếc khi chỉ huy trưởng sứ mệnh Apollo 11 - phi hành gia người Mỹ Neil Armstrong đã qua đời ở tuổi 82 sau các biến chứng từ ca phẫu thuật tim hồi đầu tháng 8. Ông Armstrong đã trở thành người đầu tiên đặt bước chân lên Mặt trăng vào ngày 20-7-1969, đánh dấu bước ngoặt vô cùng trọng đại trong lịch sử hàng không vũ trụ nước Mỹ trong cuộc chạy đua thám hiểm không gian với Liên Xô. “Đây là bước chân nhỏ của con người, nhưng lại là bước tiến vĩ đại của nhân loại” - câu phát biểu nổi tiếng của Armstrong khi ông bước lên bề mặt Mặt trăng. Hài cốt của Armstrong đã được thủy táng trong một nghi thức đám tang trang trọng diễn ra ngày 14-9-2012, trên tàu hàng không mẫu hạm USS Philippine Sea giữa Đại Tây Dương.

Tháng 9-2012

Một tin tức môi trường đáng lo ngại được Trung tâm Dữ liệu băng tuyết quốc gia Mỹ công bố trong tháng 9-2012, đó là diện tích biển băng ở Bắc cực đang ở mức thấp kỷ lục - giảm xuống 3,41 triệu km2 vào ngày 16-9-2012, thấp hơn 50% so với mức trung bình trong giai đoạn 1979-2000.

Bên cạnh đó, tín hiệu vui đã đến ở lĩnh vực y học khi vào ngày 5-9-2012, các nhà khoa học đã công bố bản đồ chi tiết nhất về bộ gen người - công trình nghiên cứu chung của hơn 400 nhà khoa học tại 32 phòng thí nghiệm ở các nước: Anh, Mỹ, Tây Ban Nha, Singapore và Nhật Bản. “Bản đồ Google” bộ gen người được kỳ vọng giúp giới khoa học tìm hiểu sâu hơn nhiều loại bệnh, từ đó có hướng điều trị hiệu quả hơn.

Trong tháng 9-2012, lần đầu tiên Cơ quan Bảo vệ thiên nhiên và môi trường nước Anh đã cấp giấy phép hoạt động cho nông dân, cho phép họ bắn và tiêu diệt những con lửng hoang dã (badger) trên quy mô lớn - loài động vật thuộc họ chồn bị tình nghi lây nhiễm vi khuẩn gây bệnh lao cho gia súc như bò. Tuy nhiên, vấn đề con lửng truyền tải bệnh lao giữa các gia súc vẫn còn gây tranh cãi nên đã xuất hiện làn sóng của những người biểu tình, buộc phải trì hoãn việc tiêu diệt con lửng đến mùa hè năm 2013.

Tháng 10-2012

Ngày 14-10-2012, Felix Baumgartner - vận động viên nhảy dù người Áo - đã thực hiện cú nhảy ngoạn mục ở độ cao 39km từ một khoang chứa đặc biệt gắn dưới một khinh khí cầu khổng lồ tại một địa điểm ở bang New Mexico, Mỹ. Sau lời chào đến hàng triệu người theo dõi khắp thế giới, Baumgartner đã nhảy khỏi khoang chứa và tăng tốc rất nhanh, đạt tốc độ 1.340km/giờ, nhanh hơn tốc độ âm thanh.

Giải Nobel - giải thưởng uy tín nhất được trao hàng năm cho các lĩnh vực y học, vật lý và hóa học. Trong năm 2012, giải Nobel y học được trao cho các nhà khoa học Shinya Yamanaka (người Nhật) và John Gurdon (người Anh) với công trình tái lập trình tế bào trưởng thành thành các tế bào gốc đa năng. Serge Haroche (người Pháp) và David Wineland (người Mỹ) được nhận giải Nobel vật lý vì đã tìm ra cách nghiên cứu và quan sát trực tiếp các hạt lượng tử riêng lẻ mà không phá hủy chúng. Hai người Mỹ Robert Lefkowitz và Brian Kobilka đã giành giải Nobel hóa học với công trình nghiên cứu tập trung vào việc đột phá về các phản ứng của các thụ thể trong tế bào cơ thể với môi trường xung quanh.

Tháng 11-2012

Mực nước biển toàn cầu tăng 11 mm trong hai thập kỷ qua. Đó là kết quả các nhà khoa học đã công bố trong tháng 11-2012 trong quá trình họ nghiên cứu các tảng băng ở hòn đảo Greenland, Bắc cực và tại Nam cực, điều này cho thấy các tảng băng đã tan chảy nhanh hơn bao giờ hết.

Trong tháng 11-2012, Ob River - tên tàu chở khí đốt hóa lỏng đầu tiên - đã băng qua Bắc cực. Công ty Dynagas (Hi Lạp) sở hữu tàu Ob River cho biết cuộc hành trình con tàu thật thú vị khi nó vượt Bắc Băng Dương - nơi băng đang tan chảy - để tới Nhật Bản. Thời gian di chuyển của tàu giảm 20 ngày so với lộ trình thông thường. Các nghiên cứu cho thấy những điều kiện biến đổi khí hậu trên Bắc Băng Dương hiện nay đang trở nên thuận lợi hơn cho hoạt động vận tải. Lợi nhuận sẽ tăng khi quãng đường giảm tới 40%, đồng nghĩa với việc tiết kiệm 40% nhiên liệu.

Tháng 12-2012

Hội nghị biến đổi khí hậu lần thứ 18 của Liên Hiệp Quốc diễn ra tại thủ đô Doha, Qatar thảo luận các vấn đề nổi bật như việc các quốc gia giàu phải bồi thường cho các nước nghèo hơn vì những vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu. Ngoài ra, các quốc gia phát triển cần thực hiện triệt để các cam kết cắt giảm lượng khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính.

Một tin khoa học nổi bật trong tháng cuối năm 2012 là nhà thiên văn học nổi tiếng người Anh Patrick Moore đã qua đời vào ngày 9-12, thọ 89 tuổi. Ông từng dự đoán hành tinh bên ngoài hệ Mặt trời sẽ được phát hiện trong 50 năm tới và con người có thể đi du lịch tới Mặt trăng, sao Hỏa và vượt ra khỏi hệ mặt trời vào cuối thế kỷ này.
Nguồn TTO
Chia sẻ:

Hạt cơ bản Higgs đứng đầu các khám phá khoa học năm 2012

Tạp chí khoa học uy tín Sience của Hoa Kỳ đã bình chọn và công bố danh sách 10 khám phá khoa học nổi bật nhất năm 2012, trong đó đứng đầu là khám phá về hạt cơ bản Higgs.


Hạt cơ bản Higgs


Ngày 4/07/2012 tại Geneva, Thụy Sĩ, Hội đồng Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (Conseil Européenne pour la Recherche Nucléaire - CERN) đã công bố khám phá về hạt Higgs hay boson Higgs (theo tên của nhà vật lý Peter Higgs người Anh), và cũng thường được gọi là "hạt của Chúa".  Peter Higgs, một nhà vật lý người Anh, là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của hạt Higgs trong thập niên 60 của thế kỷ trước. Nó là mảnh ghép còn thiếu trong Mô hình chuẩn - một trong những giả thuyết vật lý được chấp nhận rộng rãi nhất trong việc giải thích mọi hiện tượng trong vũ trụ.

Tuy là lý thuyết thành công, Mô hình chuẩn không giải thích được hiện tượng một số loại hạt (như photon) không có khối lượng, trong khi các loại hạt khác có khối lượng với mức độ không giống nhau. Nếu mọi hạt không có khối lượng, chúng sẽ di chuyển trong vũ trụ với tốc độ của ánh sáng và không thể liên kết với nhau để tạo nên khí, nước, hành tinh, ngôi sao và các dạng vật chất khác.

Trong nhiều năm qua, giới khoa học dựa vào giả thuyết về một loại hạt để giải thích khối lượng của mọi vật trong vũ trụ. Các chính phủ trên khắp thế giới đổ hàng chục tỷ USD cho nỗ lực tìm kiếm hạt Higgs trong thập kỷ qua. Leon Lederman, một nhà nghiên cứu từng đoạt giải Nobel Vật lý, gọi hạt Higgs là "hạt của Chúa". Ngày nay "hạt của Chúa" là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến, vì tầm quan trọng của nó trong vụ nổ Big Bang cách đây 13,7 tỷ năm. Hạt Higgs nếu tồn tại sẽ chứng tỏ được sự tồn tại của vật chất tối (được cho là chiếm đến 3/4 vật chất trong vũ trụ).

Khám phá trên đã giúp con người đạt được một cột mốc trong sự hiểu biết về tự nhiên. Khám phá về hạt giống với hạt Higgs mở đường cho những nghiên cứu chi tiết hơn, đòi hỏi các thống kê rộng lớn hơn, vốn sẽ xác định rõ ràng các đặc tính của loại hạt mới và chắc chắn sẽ soi rọi ánh sáng vào những bí ẩn khác của vũ trụ. Việc khám phá hạt Higgs sẽ củng cố Mô hình Chuẩn, một lý thuyết mô tả mọi loại hạt, lực và sự tương tác vốn hình thành nên vũ trụ. Các nhà khoa học tin rằng, nếu không có hạt hạ cơ bản Higgs, loài người chúng ta cũng như tất cả các vật thể khác được tạo ra từ các nguyên tử trong vũ trụ sẽ không hề tồn tại.

Các khám phá khác bao gồm:
- Các nhà khoa học người Đức đã sử dụng một kỹ thuật mới để sắp xếp thành công một chuỗi gene di truyền hoàn chỉnh của một nhóm người bí ẩn có tên là Denisovans, dựa trên một mẫu gene di truyền nhỏ được tách từ một mảnh xương ngón tay có niên đại 80 nghìn năm tuổi được phát hiện trong một hang động ở vùng Siberia.
- Các nhà khoa học Nhật Bản đã chế tạo thành công các tế bào trứng có thể tồn tại và phát triển từ các tế bào gốc trong phôi được lấy từ cơ thể chuột trưởng thành.
-  Các kỹ sư của Cơ quan hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) đã sử dụng một hệ thống hạ cánh tiên tiến và đưa thành công chiếc xe tự hành Curiosity nặng 3,3 tấn lên bề mặt sao Hỏa.
- Nhờ một máy quét X quang laser, sáng hơn gấp một tỷ lần so với các nguồn tia X truyền thống, các nhà khoa học đã có thể xác định được cấu trúc của một protein có liên quan tới sự lây lan của căn bệnh ngủ châu Phi.
- Một công cụ mới đã giúp các nhà khoa học sửa đổi hoặc vô hiệu hóa các gene di truyền trên cơ thể các con vật thí nghiệm.
- Các nhà khoa học đã xác nhận về sự tồn tại của hạt Majorana fermions, một loại hạt có khả năng tự đóng vai trò phản vật chất của chính nó và tự hủy diệt bản thân nó.
- Dự án ENCODE cho thấy có tới 80% gene di truyền trong cơ thể người đang hoạt động tích cực và giúp "bật" hay "tắt" các gen.
- Một giao diện kết nối máy tính - não người đã cho phép những người bị liệt sử dụng ý nghĩ của họ để di chuyển một cánh tay máy và thực hiện các cử động của cánh tay máy trong không gian ba chiều.
- Các nhà khoa học người Trung Quốc đã khám phá ra thông số cuối cùng chưa được biết tới của một mô hình miêu tả sự thay đổi của các hạt hạ nguyên tử có tên là neutrinos khi chúng di chuyển với vận tốc gần đạt vận tốc ánh sáng.

Nguồn NASATI 
Chia sẻ:

Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

Đô thị hóa giúp bảo vệ môi trường.

Nghiên cứu mới nhất của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho thấy, nếu quản lý một cách hợp lý, đô thị hóa sẽ mang lại nhiều lợi ích bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiến tới phát triển bền vững.

Nghiên cứu vừa công bố trong báo cáo "Những chỉ số chính Châu Á-Thái Bình Dương 2012" với tiêu đề "Chuyên đề đặc biệt: Đô thị xanh ở châu Á" giữa lúc những tranh luận đang ngày càng nóng lên về những hệ lụy của đô thị hóa quá nhanh ảnh hưởng tới môi trường, xã hội trong khu vực và làm thế nào để đảm bảo phát triển bền vững.
Đô thị

Đô thị hóa khu vực Châu Á đang diễn ra rất nhanh chóng từ vài thập niên gần đây. Số người sinh sống ở thành thị khu vực này lên tới hơn 1 tỷ, chiếm gần một nửa số dân thành thị toàn cầu. Số thành phố lớn (trên 10 triệu người) cũng vượt qua tổng số các thành phố lớn của các khu vực khác trên thế giới cộng lại và con số này sẽ vẫn tiếp tục tăng lên.

Khu vực châu Á hiện là nơi "sở hữu" nhiều thành phố ô nhiễm nhất và xả thải khí nhà kính nhiều nhất thế giới. Sự đô thị hóa nhanh chóng và những hệ lụy của nó đã và đang tạo ra thách thức to lớn trong việc đảm bảo bền vững về môi trường và xã hội, gây quan ngại cho các nhà hoạch định chính sách trong việc có nên thúc đẩy mở rộng đô thị hóa trong khu vực hay không.

Tuy nhiên bằng phân tích khoa học từ những số liệu tin cậy trên cơ sở so sánh nhiều đô thị khác nhau, nghiên cứu chỉ ra rằng nếu được quản lý một cách hợp lý, đô thị hóa có thể mang lại nhiều lợi ích giúp bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên và phát triển bền vững.

Theo kết quả, đô thị hóa giúp cải thiện hiệu quả sản xuất, giảm thiểu sử dụng tài nguyên và hạn chế hệ lụy đến hệ sinh thái khi xem xét cùng một yêu cầu sản phẩm đầu ra. Những ngành công nghiệp phát triển dịch vụ và cơ sở hạ tầng liên quan đến môi trường như cung cấp nước sinh hoạt, quản lý rác thải, xử lý nước, cảnh quan, những ngành mang lại những lợi ích thiết thực cho môi trường sẽ có điều kiện thuận lợi hơn khi xây dựng và duy trì hoạt động so với vùng nông thôn.

Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ ra vai trò đô thị hóa trong việc khuyến khích đổi mới và phát triển công nghệ xanh. Cùng với đô thị hóa nhanh chóng, sản lượng xuất khẩu các sản phẩm, thiết bị, công nghệ xanh, công nghệ tái tạo khu vực châu Á đã tăng lên đáng kể. Thị trường tiềm năng mới này với hàng tỷ người sống ở đô thị châu Á đang cần sử dụng các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, điều đó sẽ tạo cơ hội và động lực để các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển các dòng sản phẩm và công nghệ xanh.

Thêm nữa, đô thị hóa dẫn tới giảm tỷ lệ sinh sản và tăng cơ hội tiếp cận nền giáo dục tốt, từ đó tác động tích cực đến môi trường. Bằng số liệu phân tích từ 31 quốc gia khác nhau trong khu vực, nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa sự suy giảm tỷ lệ sinh sản với sự tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người, đô thị hóa và điều kiện giáo dục.

Trường hợp của Việt Nam là một thí dụ minh chứng. Tỷ lệ sinh sản giảm đáng kể từ 5,4 trong thập kỷ 80 thế kỷ trước xuống còn 1,8 trẻ em/phụ nữ vào 2010. Cũng theo nghiên cứu, người được giáo dục tốt thường có xu hướng ủng hộ và gương mẫu thực hiện các quy định của nhà nước nhằm bảo về môi trường.

Kết quả khảo sát cho thấy, gần 68% số người được đào tạo đại học hoặc trên đại học sẵn sàng đóng thuế cao hơn, thậm chí trên 80% sẵn sàng đóng góp một phần thu nhập của mình để hỗ trợ các hoạt động bảo vệ môi trường.

Vai trò quan trọng nữa là đô thị hóa khuyến khích phát triển công nghiệp dịch vụ thay vì các công nghiệp sản xuất truyền thống. Công nghiệp dịch vụ, ngành đặc trưng của đô thị yêu cầu sự tập trung cao của khách hàng, có ưu điểm vượt trội so với các ngành công nghiệp sản xuất là tiêu thụ ít tài nguyên và giảm ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, sự tập trung cao của dân số ở khu vực đô thị cũng có ưu điểm nữa là giảm khoảng cách đi lại, từ đó khuyến khích phát triển giao thông thân thiện môi trường như giao thông công cộng hiện đại, đi bộ hay đi xe đạp.

Bằng những đánh giá chi tiết hơn về tác động của đô thị hóa ở các mức độ khác nhau tới hai chỉ số môi trường: lượng khí nhà kính CO2 thải ra môi trường trên đầu người và nồng độ ô nhiễm vi vật chất PM10 (vật chất với đường kính hạt <10 micrometer, có thể hấp thụ qua đường hô hấp ảnh hưởng đến sức khỏe con người), nghiên cứu tìm ra kết luận thú vị về mối quan hệ đó. Khi đô thị hóa đạt đến ngưỡng nào đó, nó sẽ tác dụng tích cực làm giảm hai chỉ số môi trường (như minh họa trong hình 2). Ngay cả khi với cùng mức độ đô thị hóa thì người dân đô thị ngày nay được hưởng một môi trường sống tốt lành hơn trong những thập kỷ 90 của thế kỷ trước nhờ vào việc sử dụng các công nghệ và sản phẩm xanh thân thiện với môi trường.

Tuy nhiên, cũng từ những kết quả từ nghiên cứu này, ADB khẳng định đô thị hóa ở châu Á chưa đạt đến ngưỡng tích cực đó và khuyến cáo chính phủ các nước sớm đưa ra các chính sách cần thiết nhằm khuyến khích phát triển các thành phố xanh bền vững. Trong đó, các chính sách khuyến khích sử dụng các nguồn năng lượng và tài nguyên tái tạo được cũng như ứng dụng các công nghệ mới thân thiện với môi trường sẽ giữ vai trò không thể thiếu.
Nguồn vnexpress
Chia sẻ:

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Bê tông sinh học.

Nhờ một loại bê tông sinh học, mơ ước trồng cây trên tường, mái nhà của nhiều người sẽ trở thành hiện thực.


Bê tông sinh học

Antonio Aguado, một nhà khoa học của Đại học Bách khoa Catanulya tại Tây Ban Nha, cùng các đồng nghiệp tìm ra cách chế tạo loại bê tông sinh học để đáp ứng nhu cầu tạo vườn thẳng đứng của người dân vùng Địa Trung Hải trong vài năm gần đây, Gizmag đưa tin.

Bê tông sinh học vẫn chứa magie phosphate như những loại bê tông truyền thống để tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của vi tảo, nấm, địa y và rêu trong điều kiện khí hậu Địa Trung Hải. Tuy nhiên, tỷ lệ các thành phần trong bê tông sinh học được điều chỉnh để tăng độ xốp và giảm độ cứng của bề mặt bê tông để cây có thể sinh trưởng.

Về cấu tạo, bê tông sinh học của Aguado gồm ba lớp. Do tiếp xúc với bề mặt của tòa nhà, lớp dưới cùng sẽ có khả năng chống thấm nước. Lớp giữ nước nằm ở giữa và lớp hút nước ở trên cùng. Nhóm nghiên cứu khẳng định người sử dụng có thể trồng cây trên bê tông của họ sau khoảng một năm - khoảng thời gian để rêu và các dạng vi sinh vật khác phát triển đầy đủ. Nhưng sau khoảng thời gian đó, họ sẽ không phải bảo dưỡng định kỳ.

Nhóm nghiên cứu nhận định rằng nếu cây cối mọc kín trên bê tông, chúng sẽ trở thành vật liệu cách âm, cách nhiệt. Ngoài ra, nếu mọi ngôi nhà đều trở thành vườn rau đứng, chúng sẽ tạo nên cảnh quan đẹp và góp phần giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Nguồn vnexpress
Chia sẻ:

Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2012

Biến giấy thải thành gạch.

Mới đây các nhà khoa học tại ĐH Jaen của Tây Ban Nha đã nảy sinh ý tưởng biến giấy thải thành những viên gạch dùng trong xây dựng.

Để tạo ra sản phẩm đặc biệt hữu dụng này, đầu tiên các nhà nghiên cứu phải tập hợp chất thải cellulose và một loại bùn còn sót lại sau quá trình sản xuất giấy tại các nhà máy. Những chất này sẽ được trộn với đất sét sau đó nén lại thành thanh dài hình chữ nhật. Chúng sẽ được cắt thành các viên gạch và nung lên.

Gạch giấy

Theo các nhà khoa học, loại gạch đặc biệt này không cần nung lâu như gạch truyền thống. Nếu chúng được sản xuất đại trà và đưa vào thực tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí năng lượng và sản xuất. Ngoài ra, nhà xây bằng loại gạch này cách nhiệt rất tốt do đặc tính dẫn nhiệt thấp của vật liệu.

Tuy nhiên, sức chịu lực cơ học của gạch giấy chưa cao chính là hạn chế lớn nhất của sản phẩm. Các nhà khoa học hy vọng có thể khắc phục nhược điểm trên bằng cách thêm các chất thải từ quá trình sản xuất bia, dầu ô liu hoặc dầu diesel...

Nguồn  Gizmag
Chia sẻ:

Đo bán kính trái đất vào "ngày tận thế".

Các nhà khoa học trẻ ở TP HCM sẽ tổ chức đo bán kính trái đất vào ngày đông chí, trùng với thời điểm xảy ra tin đồn "ngày tận thế" 21/12/2012.

Câu lạc bộ thiên văn nghiệp dư TP HCM tổ chức sự kiện trên tại trường THPT Phú Nhuận, nhằm giúp các em học sinh tìm hiểu cách nhà khoa học Eratosthenes thời cổ đại dùng để đo chu vi trái đất. Đồng thời, các em sẽ có thêm kiến thức thực nghiệm địa lý, thiên văn và ứng dụng các kiến thức đã học vào thực tế.

Đo bán kính trái đất.

"Từ góc lệch bóng nắng đo được sẽ tính toán ra chu vi hành tinh mà chúng ta đang sống, một con số mà nhiều em nghĩ làm sao mà tính được", Đặng Tuấn Duy, chủ nhiệm câu lạc bộ thiên văn nghiệp dư TP HCM nói.

"Thí nghiệm của Eratosthenes là một trong mười thí nghiệm đẹp nhất trong lịch sử", anh Duy cho hay.

Vào ngày đông chí, mặt trời sẽ đi qua đỉnh đầu vào giữa trưa ở các nơi có vĩ tuyến 23,5 độ Nam (Nam chí tuyến). Vào ngày này, người thực hiện chỉ cần đo góc bóng mặt trời ở nơi mình sinh sống vào giữa trưa thiên văn, rồi tìm khoảng cách từ vĩ tuyến địa phương đến vĩ tuyến nơi bóng mặt trời bằng 0 (tức tới Nam chí tuyến). Lúc đó, chu vi của Trái đất chỉ đơn giản là tích của khoảng cách này với 360 độ và chia cho góc lệch.

Người đo phải chú ý góc bóng nắng phải được xác định vào lúc “giữa trưa thiên văn” lúc mặt trời lên cao nhất (đỉnh đầu, tại nam chí tuyến ứng thời điểm này thì không tạo bóng nắng). Dụng cụ đo đơn giản là một cọc dựng vuông góc với mặt đất bằng phẳng.
Eratosthenes là một học giả người Hy lạp, người quản lý thư viện nổi tiếng Alexandria. Thí nghiệm của ông là một trong những thí nghiệm nổi tiếng nhất và có ý nghĩa nhất của lịch sử nhân loại.

Trái đất hình cầu.

Ở thành phố Syene vào ngày hạ chí (21/6) lúc giữa trưa bóng của mặt trời hiện ra ở giữa đáy một cái giếng sâu trong thành phố, mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu và không có bóng nắng xuất hiện ở một cây cọc cắm vuông góc với mặt đất. Có được điều này do Syene nằm gần như trên đường chí tuyến bắc có vĩ độ 23,5 độ bắc chính bằng độ nghiêng của trục trái đất (vào ngày hạ chí Mặt trời chiếu thẳng góc với những nơi tại bắc chí tuyến vào giữa trưa thiên văn)

Cùng vào ngày hạ chí năm sau, ông đo bóng của một chiếc cọc đặt ở Alexandria và phát hiện ánh nắng mặt trời nghiêng khoảng 7,2 độ so với phương thẳng đứng. Từ kết quả này Eratosthenes nhận thấy trái đất hình tròn và ông tính được chu vi của trái đất là 250.000 stadia, đơn vị đo khoảng cách thời đó.

Đến nay, người ta chưa biết chính xác 1 stadion theo chuẩn Hy Lạp là bao nhiêu mét (hiện cho là 1 stadion bằng khoảng 185 m). Nhưng giới khoa học đánh giá, phương pháp của ông hoàn hợp lý về mặt logic (người ta cho rằng kết quả của ông vào khoảng từ 39.690 km tới 46.620 km, trong khi con số thực tế vào khoảng 40.008 km). Nó cho thấy, Eratosthenes không những đã biết trái đất hình cầu, mà còn hiểu về chuyển động của nó quanh mặt trời.
Nguồn vnexpress.net
Chia sẻ:

Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012

Đọc ô nhiễm bằng smartphone .

Các nhà khoa học Mỹ cho hay đã triển khai một đội ngũ cảm biến ô nhiễm di động, cung cấp thông tin thực tế về tình hình chất lượng không khí đến smartphone của cư dân trong vùng.


Smartphone

Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học California ở San Diego (Mỹ) cho hay những cảm biến CitiSense đặc biệt hữu ích cho những người mắc tình trạng kinh niên như suyễn, cần phải tránh nơi ô nhiễm.

Chỉ cần 100 cảm biến là đủ để thu thập thông tin thời tiết tại một khu vực rộng. Ví dụ, hạt San Diego có khoảng 3,1 triệu dân, diện tích trên 10.000 km2, và chỉ cần khoảng 10 trạm di động như vậy.
“Chúng tôi muốn có được nhiều dữ liệu, và dữ liệu chính xác, để có thể cung cấp cho cộng đồng”, website esciencenews.com dẫn lời William Griswold, Giáo sư khoa học máy tính của UC San Diego, trưởng nhóm dự án.

Trong cuộc thử nghiệm, các chuyên gia phân phát cảm biến cho khoảng 30 người mang trong ba lô trong vòng 4 tuần tại hạt San Diego.

Các cảm biến CitiSense có thể phát hiện ozone, nitrogen dioxide và carbon monoxide, những chất ô nhiễm phổ biến nhất thải ra từ xe cộ.

Và smartphone có thể hiển thị những chỉ số đó bằng cách sử dụng thang màu về chất lượng không khí theo qui định của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ, từ xanh lá (tốt) đến tím (nguy hiểm).
Nguồn thanhnien.
Chia sẻ:

Phát hiện hành tinh có thể ở được

Các nhà thiên văn đã phát hiện một ngôi sao giống Mặt trời có một hành tinh có thể hỗ trợ sự sống, theo một nghiên cứu được công bố hôm 19.12.


Hành tinh của sao Tau Ceti

Nằm cách Trái đất 12 năm ánh sáng, sao Tau Ceti có năm hành tinh lớn từ gấp hai đến gấp 6,6 lần hành tinh của con người, theo tờ The Guardian.

Có một trong năm hành tinh nặng khoảng gấp năm lần Trái đất và thuộc “vùng có thể ở được”, tức vùng có khoảng cách nhất định với ngôi sao nơi nhiệt độ không quá nóng hoặc quá lạnh để nước, yếu tố quan trọng với sự sống, có thể tồn tại trên bề mặt hành tinh.

Chu kỳ quay quanh sao Tau Ceti của hành tinh có thể ở được này là 168 ngày.  Theo các nhà nghiên cứu, nếu sự hiện hữu của nó được xác nhận, đây sẽ là hành tinh nhỏ nhất được phát hiện trong vùng có thể ở được của một ngôi sao như Mặt trời.
“Khám phá này phù hợp với quan điểm mới đặt ra của chúng tôi là gần như mọi ngôi sao đều có hành tinh và thiên hà phải có nhiều hành tinh có thể ở được cùng kích cỡ với Trái đất như thế”, đồng tác giả nghiên cứu Steve Vogt của Trường đại học California ở thành phố Santa Cruz (Mỹ), phát biểu.

Các nhà thiên văn vốn không phát hiện được điều gì khi theo dõi các hành tinh xung quanh Tau Ceti trước đây.

Tuy nhiên, trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học sử dụng những kỹ thuật phân tích mới để lọc lại dữ liệu từ hơn 6.000 lần quan sát sao Tau Ceti, và đã nhận ra năm tín hiệu yếu ớt từ các tiếng ồn biến dạng đặc trưng cho sự hiện hữu của các hành tinh có khối lượng nhỏ.

Kể từ thập niên 1990, các nhà thiên văn đã phát hiện hơn 800 hành tinh xoay quanh các ngôi sao bên ngoài hệ mặt trời. Kính viễn vọng Kepler, được đưa vào không gian năm 2009, đã tìm kiếm dấu hiệu của các hành tinh giống Trái đất tại hơn 100.000 ngôi sao.

Cho đến nay, Kepler đã xác nhận được hơn 100 hành tinh thuộc dạng này và các hành tinh của những ngôi sao nằm gần Trái đất là hấp dẫn hơn cả với các nhà thiên văn.
Nguồn thanhnien.com.vn
Chia sẻ:

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

"Tạm quên" máy tính, con người sáng tạo hơn.

Theo nghiên cứu của Đại học Utah và Đại học Kansas (Mỹ), khả năng sáng tạo của con người tăng lên đáng kể khi họ rời bỏ các thiết bị điện tử thường dùng.


Du lịch

Khảo sát được công bố trên tạp chí PLOSONE, đã tiến hành nghiên cứu 30 đàn ông và 26 phụ nữ, tuổi đời bình quân là 28. Những người này tham gia chuyến dã ngoại kéo dài từ 4-6 ngày tại những vùng hoang vắng và không mang theo các thiết bị công nghệ và truyền thông quen thuộc.
Trong số này có 24 người làm trắc nghiệm về khả năng sáng tạo lúc bắt đầu đi và 32 người làm trắc nghiệm sau 4 ngày dã ngoại.
Tính bình quân sau những ngày đi dã ngoại, điểm số trắc nghiệm họ đạt được là 6,08/10. Trong khi đó, những người chưa bắt đầu đi chỉ đạt điểm bình quân là 4,14 điểm.

Đồng tác giả nghiên cứu nói trên, giáo sư tâm lý học David Strayer, tại Đại học Utah khẳng định: “Khảo sát cho thấy sự tương tác với thiên nhiên đem lại những lợi ích thực sự, có thể định lượng được đối với việc giải quyết vấn đề sáng tạo. Các tác giả của những thế kỷ trước đã lý giải tại sao việc tiếp xúc với thiên nhiên lại quan trọng và nhiều người thích đi nghỉ nhưng chúng ta chưa biết rõ lợi ích của nó dưới góc độ khoa học”.

Nhóm nghiên cứu cũng dẫn lại những khảo sát trước đây cho thấy trẻ nhỏ hiện nay chỉ dành từ 15-25 phút/ngày cho hoạt động ngoài trời, ít hơn rất nhiều so với 30 năm trước. Trong khi đó, thanh thiếu niên từ 8-18 tuổi hiện dành hơn 7,5 giờ/ngày cho các thiết bị truyền thông như TV, điện thoại di động, máy tính…

Các nhà khoa học cho rằng những thiết bị công nghệ và truyền thông hiện đại chi phối sự chú ý của con người trong khi sự tiếp cận với thiên nhiên giúp phục hồi sự chú ý đó, giúp con người dễ tập trung vào sự sáng tạo.
Nguồn nld.com.vn
Chia sẻ:

Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012

Khắc phục ô nhiễm nước bằng hạt nano.

Các hạt nano bằng sắt được bọc trong một lớp phủ nhựa chống gỉ sẽ có thể làm sạch các hóa chất gây ô nhiễm dưới mặt đất.
Khắc phục ô nhiễm nước

Theo TS Denis O’Carrol, ô nhiễm đất là một vấn đề của lịch sử. Từ những năm 1970, con người đã sai lầm khi nghĩ rằng chôn chất độc xuống đất, nó sẽ tự biến mất, lớp dưới bề mặt đất sẽ hoạt động chức năng lọc tự nhiên. Thực tế là chất thải này có khả năng làm ô nhiễm môi trường, ô nhiễm tài nguyên nước mặt và còn tồn tại hàng thập kỷ.

O’Carroll thuộc phòng thí nghiệm nước Đại học New South Wales, đã sử dụng công nghệ nano để xử lý các chất ô nhiễm. Ông đã tiến hành thử nghiệm công nghệ làm sạch tầng nước mặt mới, sử dụng các hạt kim loại kích thước nano, nhỏ hơn sợi tóc người từ 500 tới 5000 lần.

Hạt sắt được bơm thẳng vào đất bị ô nhiễm, nơi chúng sẽ chảy tới các chất ô nhiễm và bắt đầu phản ứng oxy hóa khử. Trong phản ứng này điện tử được di chuyển giữa hạt nano và chất ô nhiễm. Phản ứng sẽ thay đổi trạng thái ôxy hóa của chất gây ô nhiễm và làm giảm bớt tính độc tổng thể, nâng dần tới mức độ an toàn hơn.

Kích thước nhỏ của các hạt nano cho phép chúng có thể di chuyển qua các kênh hiển vi trong đất và đá để tiến tới và phá hủy các chất gây ô nhiễm, điều mà các hạt lớn hơn không thể làm được.

Ngoài ra, các hạt sắt kích thước nano đặc biệt an toàn với môi trường vì chúng không linh hoạt và phân hủy một cách nhanh chóng. Thực tế, điều này cũng có phần bất lợi vì nó hạn chế khả năng tìm kiếm và phá hủy độc tố của các hạt nano.

Để tối ưu hóa các hạt nano, O’Carroll đang thử nghiệm nhiều dạng sắt khác nhau, và bao bọc các hạt trong lớp nhựa chống gỉ, giúp làm chậm quá trình phân hủy và tăng tính linh động của sắt, mà không ảnh hưởng xấu tới môi trường.

Công nghệ mới đã được thử nghiệm tại hai vùng bị ô nhiễm ở Ontario và quan sát thấy kết quả giảm đáng kể các chất gây ô nhiễm tại cả hai vùng. Nghiên cứu đã được đăng trên tạp chí The Nature of Things.
Nguồn Vista
Chia sẻ:

Trẻ có IQ thấp do ô nhiễm không khí.

Các nhà nghiên cứu Mỹ lần đầu tiên đã tìm thấy sự liên quan giữa tình trạng ô nhiễm không khí trước khi sinh với chỉ số IQ thấp ở trẻ nhỏ.
Ô nhiễm không khí

Kết quả trên có được sau khi nghiên cứu 249 trẻ em sống tại thành phố New York là con của những phụ nữ phải mang máy trợ thở trong suốt những tháng cuối thai kỳ. Những phụ nữ này sống ở những vùng có thu nhập thấp nhất ở bắc Manhattan và Nam Bronx. Họ thường xuyên phải tiếp xúc với tình trạng ô nhiễm không khí do lượng lớn khí thải từ ô tô, xe buýt, xe tải xả ra.

Ở tuổi lên 5, tuổi trước khi đi học, trẻ sẽ được kiểm tra chỉ số IQ. Những đứa trẻ sống trong môi trường ô nhiễm từ lúc còn trong bụng mẹ có chỉ số IQ thấp hơn so với những trẻ khác 4-5 điểm.

“Đó là một sự khác biệt lớn và nó có thể ảnh hưởng tới thành tích học tập ở trường của trẻ”, Frederica Perera, trưởng nhóm nghiên cứu và là Giám đốc của TT Columbia về Sức khỏe môi trường đối với trẻ em, cho biết.
Trong giai đoạn đầu của nghiên cứu này, bà Perera đã tìm thấy mối liên hệ giữa sự ô nhiễm không khí từ trong bụng mẹ với những biến đổi gen ở thai nhi có thể làm tăng nguy cơ ung thư, vòng đầu của trẻ khi sinh ra nhỏ hơn và cũng nhẹ cân hơn lúc chào đời. Nhóm nghiên cứu của bà Perera cũng tìm thấy sự liên quan giữa sự phát triển chậm của trẻ 3 tuổi với bệnh hen suyễn.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu các chất gây ô nhiễm mà có thể thâm nhập vào thai nhi qua nhau thai và nhận thấy đó là chất hydrocacbon thơm nhiều vòng. Đây là hợp chất có rất nhiều trong khí thải của các loại xe cộ và từ các ống khói nhà máy. Khói thuốc lá cũng là một nguyên nhân nhưng các bà mẹ tham gia nghiên cứu hoàn toàn không hút thuốc lá.

Trong số 140 trẻ tham gia nghiên cứu, 56% thuộc nhóm nguy cơ cao (mẹ sống ở gần những đường phố đông đúc, bến xe buýt và các loại nguồn gây ô nhiễm không khí thành phố khác).

Các nhà nghiên cứu cũng xem xét các yếu tố có thể ảnh hưởng tới IQ như hút thuốc thụ động, sống trong môi trường ô nhiễm trước khi sinh và nhận thấy sự ảnh hưởng mạnh mẽ của giai đoạn thai nghén. Và đây chính là tiền đề để bà Perera nghiên cứu sâu hơn về chỉ số IQ và ô nhiễm khi mang thai.

TS. Robert Geller, chuyên gia nhi và chất độc trường ĐH Emory, nhấn mạnh: “Nghiên cứu này hoàn toàn không khẳng định rằng ô nhiễm không khí trong suốt thời thơ ấu sẽ quyết định chỉ số IQ của trẻ bởi vì vẫn có những trẻ đạt thành tích cao trong học tập dù mẹ của em đã từng sống trong môi trường ô nhiễm lúc có thai”.

Theo chuyên gia sức khỏe môi trường trường Sức khỏe cộng đồng John Hopkin Patrick Breysse thì cần phải có thêm những nghiên cứu khác để khẳng định kết quả trên.

Nguồn TTXVN
Chia sẻ:

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

Ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo vệ môi trường

Với Đề án phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đến năm 2020 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, có 8 nhóm nhiệm vụ sẽ được ưu tiên thực hiện.

Thứ nhất là nhóm nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Nhóm nhiệm vụ thứ hai là nâng cao năng lực cán bộ về công nghệ sinh học phục vụ lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Nhóm nhiệm vụ thứ ba là tăng cường trang thiết bị và cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Thứ tư là phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong quan trắc, đánh giá chất lượng môi trường.
Thứ năm là phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong xử lý ô nhiễm, khắc phục sự cố môi trường, cải tạo và phục hồi các hệ sinh thái.
Thứ sáu là nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học để tạo ra các công nghệ, sản phẩm thân thiện với môi trường, sản xuất nhiên liệu sinh học.
Thứ bảy là nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học để lưu giữ, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học.
Thứ tám là nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các phương pháp đánh giá nhằm kiểm soát, quản lý hiệu quả công nghệ và sản phẩm công nghệ sinh học trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Rơm rạ

Một trong những mục tiêu cụ thể là phát triển và ứng dụng từ 5-10 loại chế phẩm sinh học để xử lý chất thải và được đăng ký lưu hành theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Đến năm 2020, bảo đảm kiểm soát và đánh giá được chất lượng, hiệu quả, độ an toàn của công nghệ sản phẩm công nghệ sinh học ứng dụng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại Việt Nam. Đào tạo được 300-400 kỹ thuật viên trong nước và tham gia đào tạo được 20-30 thạc sỹ và 10-15 tiến sỹ công nghệ sinh học môi trường trong khuôn khổ các đề tài, dự án, nhiệm vụ của Đề án.

Các nhiệm vụ thực hiện Đề án bao gồm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong phòng ngừa và xử lý ô nhiễm môi trường, ưu tiên đối với xử lý chất thải y tế; chất thải công nghiệp; chất thải nguy hại; chất thải đặc thù trong hoạt động an ninh, quốc phòng; nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong cải tiến quy trình công nghệ theo hướng thân thiện môi trường và sản xuất sạch hơn.Trong đó, có ưu tiên phát triển và ứng dụng các tổ hợp các chất có hoạt tính sinh học cao và vi sinh vật để tạo ra các sản  phẩm thân thiện môi trường hoặc thay thế các hóa chất nguy hại trong quá trình sản xuất của một số ngành kinh tế quan trọng.
Nguồn thiennhien.net
Chia sẻ:

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

Trái đất thứ 2.

7 hành tinh này nằm trong dải Ngân Hà bên ngoài hệ mặt trời của chúng ta và có những điều kiện phù hợp với sự sống tương tự Trái Đất.

Phát hiện này được công bố đúng vào dịp kỷ niệm 1 năm triển khai dự án đầy tham vọng mang tên Habitable Exoplanets Catalog (HEC) - lập danh sách tất cả các hành tinh có thể ở được ngoài Trái Đất.

Trưởng dự án, Abel Mendez - Hiệu trưởng Đại học Puerto Rico tại Phòng thí nghiệm Arecibo's Planetary Habitability - cho biết, ban đầu, nhóm ông chỉ hi vọng sẽ tìm ra được thêm 1-2 hành tinh có thể làm nơi cư trú cho con người trong tương lai. Việc tìm ra 5 hành tinh nữa quả thực vượt quá mong đợi của tất cả thành viên.
Hành tinh ngoài hệ mặt trời

"Đã có rất nhiều bài báo đưa tin về sự phát hiện ra những hành tinh có thể trở thành nơi sinh sống trong vũ trụ. Quá nhiều thông tin lại gây rối trí cho công chúng. Vì vậy, lập một cuốn danh bạ mà nhờ nó, mọi người có thể tra cứu những hành tinh thực sự có thể ở được là điều vô cùng cần thiết", giáo sư Mendez chia sẻ với Space.com.

Ông cho biết thêm, với việc các nhà khoa học cải tiến kỹ thuật tìm kiếm Trái Đất mới ngoài hệ mặt trời, tiến độ của dự án đã được đẩy nhanh đáng kể. Các thiết bị như dò tìm hành tinh thông qua vận tốc xuyên tâm có độ chính xác cao (Harps) và kính viễn vọng Kepler Space Telescope là hai trong số những trợ thủ đắc lực đã giúp các nhà khoa học tìm được Trái Đất mới hàng tháng.
Hoàng hôn

Dự án HEC được giáo sư Abel Mendez và nhóm của mình bắt đầu thực hiện từ tháng 12 năm ngoái. Mục đích là kiểm tra mức độ phù hợp của hành tinh ngoài hệ mặt trời cho cuộc sống con người và tìm ra cách sắp xếp, phân loại chúng sao cho có thể giới thiệu tới đông đảo công chúng.

Trên thực tế, đã tìm ra được gần 80 hành tinh có kích cỡ tương đương Trái Đất nhưng chỉ một số ít có khoảng cách phù hợp để trữ được nước trên bề mặt.

Tính tới thời điểm này, dự án HEC đã cho phép liệt kê 7 hành tinh có thể trở thành Trái đất thứ hai trong tương lai, bao gồm Gliese 581g, cộng thêm 27 hành tinh khác phát hiện nhờ đài thiên văn vũ trụ của NASA đang chờ xác nhận cuối cùng.

Thông tin ban đầu cho thấy, 7 hành tinh này được gọi là những Siêu Trái Đất. Chúng có kích cỡ lớn hơn Trái Đất khá nhiều. Tuy nhiên, nhóm các nhà khoa học đang theo đuổi dự án HEC nhấn mạnh, cần tiến hành thêm nhiều quan sát thiên văn học nữa để khẳng định môi trường trên các hành tinh này thực sự phù hợp với con người. Hiện tại, một bản sảo đích thực của Trái Đất vẫn chưa được tìm ra.
Nguồn tinmoitruong
Chia sẻ:

Thằn lằn mang tên Obama.

Cộng đồng khoa học tìm ra một cách đặc biệt để tôn vinh Tổng thống Mỹ Barack Obama khi họ dùng tên ông để gọi một loài thằn lằn đã biến mất.

Thằn lằn Obamadon gracilis

Obamadon gracilis là tên của một loài thằn lằn cỡ nhỏ từng tồn tại cách đây khoảng 65 triệu năm. Chúng ăn côn trùng và có chiều dài thân khoảng 30 cm, Boston Globe đưa tin. Các nhà khoa học của Đại học Yale và Đại học Harvard đã nghiên cứu những mẫu hóa thạch của chúng để tìm hiểu nguyên nhân khiến chúng tuyệt chủng cùng thời với khủng long. Sau đó họ quyết định gọi chúng là Obamadon gracilis.

Trước đây giới chuyên môn tin rằng vụ va chạm giữa một thiên thạch với địa cầu khiến khủng long tuyệt chủng, song các loài thằn lằn cỡ nhỏ vẫn sống sót. Nhưng nhóm nghiên cứu của Đại học Yale và Đại học Harvard khẳng định rằng tất cả những loài có trọng lượng trên 450 g, bao gồm thằn lằn, đều diệt vong.

Nicholas Longrich, một nhà cổ sinh vật học của Đại học Yale, khẳng định rằng những loài thằn lằn ngày nay bắt đầu xuất hiện sau khi khủng long tuyệt chủng.

Đây là lần thứ ba người ta dùng tên ông Obama để gọi các loài. Trước đó tên của ông được đặt cho một loài cá (Etheostoma obama) và một loài địa y (Caloplaca obamae).
Nguồn vnexpress
Chia sẻ:

Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012

Hành tinh mồ côi.

Các nhà thiên văn tại Pháp phát hiện một hành tinh khổng lồ đang di chuyển tự do trong không gian vì nó không xoay quanh bất kỳ ngôi sao nào.


Kẻ mồ côi


Từ trước tới nay nhiều nhà khoa học luôn nghĩ rằng mọi hành tinh trong vũ trụ xoay quanh các ngôi sao, bởi họ chưa bao giờ thấy hành tinh nào di chuyển tự do trong vũ trụ. Nhưng mới đây Philippe Delorme, một nhà nghiên cứu của Viện Hành tinh và Vật lý thiên văn Grenoble tại Pháp, cùng các đồng nghiệp đã phát hiện một hành tinh không xoay quanh bất kỳ ngôi sao nào. Nó di chuyển tự do trong vũ trụ bao la. Nhóm nghiên cứu gọi nó là "hành tinh mồ côi", Space đưa tin.

CFBDSIR2149, tên của hành tinh, có thể là một quả cầu khí khổng lồ to hơn sao Mộc khoảng 4 tới 7 lần. Hiện tại nó cách trái đất chừng 100 năm ánh sáng.

Dường như "hành tinh mồ côi" thuộc một nhóm hành tinh mới ra đời cùng nhau từ 50 tới 120 triệu năm trước. Chúng là một trong những nhóm hành tinh gần Thái Dương Hệ nhất. Theo tính toán của Delorme và các cộng sự, nhiệt độ trung bình trên bề mặt của nó vào khoảng 430 độ C.

Phát hiện một hành tinh lang thang không còn là tin gây sốc đối với giới khoa học. Khoảng một năm trước giới thiên văn đã phát hiện vài hành tinh như vậy. Vì thế một số nhà khoa học nghĩ rằng “hành tinh mồ côi” là loại thiên thể khá phổ biến. Thậm chí một nghiên cứu vào năm 2011 còn kết luận chúng chiếm tỷ lệ 50% trong tổng số hành tinh thuộc dải Ngân Hà. Điều đó có nghĩa là dải Ngân Hà sở hữu vài tỷ “hành tinh mồ côi”. Tuy nhiên, phần lớn chúng là hành tinh đá. Những hành tinh khí khổng lồ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ.
Nguồn vnexpress

Chia sẻ:

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

Nhiệt độ toàn cầu có thể nóng thêm 4 độ C


Ngân hàng Thế giới (WB) ngày 19-11 cảnh báo nhiệt độ Trái đất có thể tăng thêm 4 độ C trong thế kỷ này, từ đó gây ra những hậu quả khôn lường đối với các thành phố ven biển và những nước đang phát triển.

Trái đất nóng lên

Dẫn nghiên cứu do Viện Nghiên cứu tác động môi trường và phân tích khí hậu Potsdam (Đức) thực hiện, WB kêu gọi hành động khẩn cấp vì tương lai của Trái đất, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển, cần ngay lập tức giảm lượng khí thải nhà kính từ các nguồn sản xuất năng lượng.

Theo nghiên cứu, Trái đất có thể ấm thêm 4 độ C vào đầu những năm 2060 nếu lời hứa đấu tranh chống biến đổi khí hậu của các chính phủ không thực hiện được. Tuy nhiên, ngay cả khi các quốc gia hoàn thành cam kết hiện tại của mình thì khả năng Trái đất ấm thêm 4 độ C vào năm 2100 là 20%.

Chủ tịch WB Jim Yong Kim nói: “Thời gian còn lại rất ngắn. Thế giới phải giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu quyết liệt hơn. Chúng ta sẽ không thể chấm dứt được đói nghèo nếu không giải quyết triệt để tình trạng này. Đây là một trong những thách thức đơn lẻ lớn nhất với xã hội công bằng ngày nay”.

Với mức tăng như vậy thì mỗi khu vực khác nhau sẽ chịu hậu quả khác nhau, như đợt không khí nóng gần đây ở Nga có thể trở thành hiện tượng thường niên hơn, và nhiệt độ mùa hè của vùng Địa Trung Hải có thể nóng hơn 9 độ C so với nhiệt độ cao nhất hiện tại ở khu vực này.

Trong viễn cảnh đó, nồng độ acid trong các đại dương có thể tăng lên với tỉ lệ chưa từng thấy, đe dọa môi trường sống của các rạn san hô. Ngoài ra, mực nước biển dâng cao thêm 1m sẽ gây ngập lụt tại nhiều khu vực ven biển. Những thành phố dễ bị ảnh hưởng nhất nằm tại các nước Bangladesh, Ấn Độ, Indonesia, Madagascar, Mexico, Mozambique, Philippines, Venezuela và Việt Nam. “Thiệt hại môi trường đa dạng sinh học sẽ không thể phục hồi được” - Chủ tịch Kim nói.

Tác động đáng báo động nhất chính là ảnh hưởng đến việc sản xuất lương thực, cụ thể những vùng trũng như Bangladesh, Ai Cập, Việt Nam và một số vùng bờ biển châu Phi sẽ ảnh hưởng lớn khi hạn hán nghiêm trọng tác động lên ngành nông nghiệp.

Các cuộc đàm phán về biến đổi khí hậu do Liên Hiệp Quốc khởi xướng đều cam kết giới hạn nhiệt độ Trái đất không tăng quá 2 độ C. Tổng thư ký LHQ Ban Ki Moon thúc giục các quốc gia phải hoàn thành cam kết của mình được đưa ra tại hội nghị môi trường ở Nam Phi hồi năm ngoái, từ đó xây dựng một thỏa thuận khí hậu mới có tính ràng buộc pháp lý trước năm 2015.
Nguồn tuoitreonline
Chia sẻ:

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

"Kẻ mồ côi" lang thang trong vũ trụ

Các nhà thiên văn tại Pháp phát hiện một hành tinh khổng lồ đang di chuyển tự do trong không gian vì nó không xoay quanh bất kỳ ngôi sao nào.


Hành tinh lạ


Từ trước tới nay nhiều nhà khoa học luôn nghĩ rằng mọi hành tinh trong vũ trụ xoay quanh các ngôi sao, bởi họ chưa bao giờ thấy hành tinh nào di chuyển tự do trong vũ trụ. Nhưng mới đây Philippe Delorme, một nhà nghiên cứu của Viện Hành tinh và Vật lý thiên văn Grenoble tại Pháp, cùng các đồng nghiệp đã phát hiện một hành tinh không xoay quanh bất kỳ ngôi sao nào. Nó di chuyển tự do trong vũ trụ bao la. Nhóm nghiên cứu gọi nó là "hành tinh mồ côi", Space đưa tin.

CFBDSIR2149, tên của hành tinh, có thể là một quả cầu khí khổng lồ to hơn sao Mộc khoảng 4 tới 7 lần. Hiện tại nó cách trái đất chừng 100 năm ánh sáng.

Dường như "hành tinh mồ côi" thuộc một nhóm hành tinh mới ra đời cùng nhau từ 50 tới 120 triệu năm trước. Chúng là một trong những nhóm hành tinh gần Thái Dương Hệ nhất. Theo tính toán của Delorme và các cộng sự, nhiệt độ trung bình trên bề mặt của nó vào khoảng 430 độ C.

Phát hiện một hành tinh lang thang không còn là tin gây sốc đối với giới khoa học. Khoảng một năm trước giới thiên văn đã phát hiện vài hành tinh như vậy. Vì thế một số nhà khoa học nghĩ rằng “hành tinh mồ côi” là loại thiên thể khá phổ biến. Thậm chí một nghiên cứu vào năm 2011 còn kết luận chúng chiếm tỷ lệ 50% trong tổng số hành tinh thuộc dải Ngân Hà. Điều đó có nghĩa là dải Ngân Hà sở hữu vài tỷ “hành tinh mồ côi”. Tuy nhiên, phần lớn chúng là hành tinh đá. Những hành tinh khí khổng lồ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ.
Nguồn vnexpress.net
Chia sẻ:

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Xây nhà tiết kiệm năng lượng đầu tiên vào năm 2013

Nhà tiết kiệm năng lượng đầu tiên tại Việt Nam sẽ được xây dựng ở Thành phố Hồ Chí Minh vào giữa năm 2013 do Trung tâm Tiết kiệm Năng lượng Thành phố Hồ Chí Minh (ECC) và Công ty Kiến trúc Kaergaard Andersen và Trường Đại học Bắc Đan Mạch thực hiện.

Nhà tiết kiệm năng lượng

Thông tin trên đã được công bố tại Hội thảo "Tòa nhà tối ưu năng lượng của Đan Mạch tại Việt Nam”, tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 9/11.

Hội thảo có sự tham dự của Bộ trưởng Bộ Xây dựng Năng lượng và Khí hậu Đan Mạch Martin Lidergaard; Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Lê Mạnh Hà và đông đảo các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam và Đan Mạch.

Các chuyên gia đến từ Đan Mạch đã giới thiệu những mô hình trong thiết kế, xây dựng đạt tiêu chuẩn xanh, tiết kiệm năng lượng. Mô hình nhà tiết kiệm năng lượng của Đan Mạch tại Việt Nam, được xem như một trung tâm thiết kế và xây dựng công trình tối ưu hóa năng lượng.

Nhà tiết kiệm năng lượng được xây dựng bằng vật liệu cách nhiệt tốt, giảm thiểu nhu cầu sử dụng năng lượng, đồng thời tốt cho sức khỏe và thoải mái tiện nghi với không khí bên trong thông suốt nhờ thiết kế thông minh, tăng ánh sáng tự nhiên và khí trời.

Các chuyên gia của Đan Mạch cho biết nguyên tắc trong thiết kế nhà tiết kiệm năng lượng là tự tạo ra nguồn năng lượng lớn hơn mức sử dụng và nhằm kết nối bền vững với cộng đồng.

Ông Lê Mạnh Hà - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho biết với mức tiêu thụ năng lượng chiếm tới 1/5 của cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh đang triển khai nhiều giải pháp nhằm tiết kiệm năng lượng, trong đó đặc biệt chú ý đến việc triển khai trong lĩnh vực xây dựng, năng lượng xanh.

Từ thực tế đó, Thành phố Hồ Chí Minh rất cần hợp tác, chuyển giao công nghệ từ các nước đi trước, thành công trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng.

Đan Mạch là một trong những nước có kinh nghiệm hàng đầu thế giới trong thiết kế, xây dựng các tòa nhà xanh.

Thông qua chương trình hợp tác với Đan Mạch, Việt Nam cũng như Thành phố Hồ Chí Minh có thêm thông tin, nắm bắt được những kiến thức tốt trong xây dựng các tòa nhà xanh, tiết kiệm năng lượng.

Ông Martin Lidergaard, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Năng lượng và Khí hậu Đan Mạch cho rằng tiềm năng tiết kiệm năng lượng giữa Việt Nam và Đan Mạch hiện nay là rất lớn, nhất là trong lĩnh vực xây dựng có nhiều hứa hẹn.

Đan Mạch là quốc gia có các tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng trong xây dựng rất khắt khe và chất lượng nhất thế giới.

Với việc triển khai xây dựng nhà tiết kiệm năng lượng tại Việt Nam sắp tới sẽ mở ra những cơ hội hợp tác cho hai bên trong lĩnh vực xây dựng, tiết kiệm năng lượng.

Theo Vietnam+
Chia sẻ:

Việt Nam sắp đón mưa sao băng.


Mưa sao băng Leonids, một trong những hiện tượng thiên văn đáng chú ý của năm, sẽ được nhìn thấy tại Việt Nam cuối tuần này.

Mưa sao băng


Theo dự báo của Tổ chức Sao băng Quốc tế (IMO), mưa sao băng Leonids năm nay tuy số lượng sao băng theo giờ không tăng, nhưng điểm khác thường là trận mưa này có thể đạt cực điểm tới hai lần vào khoảng 4 giờ chủ nhật và 13 giờ thứ tư tuần sau theo giờ Hà Nội.

Tuy nhiên, theo Đặng Tuấn Duy, Chủ nhiệm Câu lạc bộ thiên văn nghiệp dư Tp. HCM, thời gian thích hợp nhất để quan sát trận mưa sao băng trên ở Việt Nam là từ nửa đêm thứ bảy tới rạng sáng chủ nhật sắp tới. Đó là khi chòm Leo (sư tử), nơi xuất phát của các sao băng, xuất hiện ở chân trời phía đông. "Hãy để tầm mắt bao quát cả vùng trời phía đông lên đến đỉnh đầu người xem bắt gặp các sao băng nhiều nhất", Tuấn Duy nói.

Khi Leonids đạt đỉnh điểm, ở những nơi có điều kiện quan sát lý tưởng, số sao băng có thể lên đến hơn 20 vệt/giờ. "Trong những năm gần đây Leonids suy yếu dần, nhưng trận mưa sao băng lần này sẽ xuất hiện với nhiều sao băng sáng", Tuấn Duy cho biết.

Năm ngoái, ánh trăng sáng gần chòm sao Leo đã phá hỏng trận mưa sao Leonids. Song năm nay, mặt trăng gần như không gây ảnh hưởng tới người quan sát.

Mưa sao băng Leonid xuất hiện vào tháng 11 hàng năm khi trái đất đi qua vùng bụi của sao chổi 55P/Tempel-Tuttle. Trong quá khứ, Leonids từng được ví là bão sao băng khoảng thời gian những năm 1998 - 2002 khi nó đạt đến vài chục ngàn sao băng xuất hiện trong một giờ khi cực điểm.
Nguồn khoahoc.com.vn
Chia sẻ:

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

Chất ô nhiễm kích thước nano nguy hiểm cho cây trồng.

Theo hai nghiên cứu mới của Trường Đại học California (Hoa Kỳ), các chất ô nhiễm kích thước nano có thể thâm nhập vào rễ cây trồng, gây ra hàng loạt thay đổi đối với sự sinh trưởng và sức khỏe của cây trồng. Các hạt nano nhỏ này có thể cản trở sự phát triển của cây trồng, thúc đẩy hấp thụ các chất ô nhiễm ở cây trồng và làm tăng nhu cầu phân bón cho cây trồng.

Chất ô nhiễm

Các vật liệu nano được xả ra trong khí thải của máy kéo chạy diesel, có thể đổ xuống các cánh đồng cây trồng. Các vật liệu nano sử dụng trong vải dệt, kem chống nắng và các sản phẩm khác được thu gom dưới dạng các chất rắn, tách từ bùn cống và nước thải; các chất rắn giàu dưỡng chất thường được bón cho các cánh đồng ở Hoa Kỳ để cải thiện đất. Các nghiên cứu mới đề cập đến các ảnh hưởng nguy hại mà hạt nano có thể gây ra cho các cây trồng trong tương lai khi việc tiếp xúc gia tăng.

Để nghiên ứu tác động của các vật liệu nano đến cây trồng, nhóm nghiên cứu đã cho cây đậu tương từ lúc nảy mầm từ hạt tiếp xúc với đất được xử lý bằng một trong hai vật liệu nano oxit kim loại được thương mại phổ biến, đó là oxit xeri dùng làm chất xúc tác trong nhiên liệu diesel và các sản phẩm khác hoặc các hạt oxit kẽm sử dụng trong kem chống nắng và dùng làm tác nhân kháng khuẩn.

So với các cây trồng không được tiếp xúc với đất qua xử lý, các cây trồng này sinh trưởng trong đất có các hạt nano oxit kẽm phát triển ít lá hơn. Trái lại, cây trồng trong đất chứa oxit xeri còi cọc nhất. Oxit kẽm tích tụ trong lá cây đậu tương và hạt đậu được trồng trên đất đã qua xử lý. Tuy nhiên, sự thâm nhập của oxit xeri vào trong cây đậu tương chỉ dừng lại lại tại các mấu nhỏ của rễ. Ở các cây đậu tương được tiếp nhận lượng oxit xeri ở mức cao nhất, các mấu nhỏ ở rễ không chứa vi khuẩn thông thường, lấy nitơ từ không khí và chuyển thành dạng hóa học (amoniac) mà đậu tương và các cây trồng khác dùng làm phân bón.

Khả năng cố định nitơ của đậu tương và các loại đậu khác là “một trong những quá trình quan trọng nhất của vi khuẩn trong ngành nông nghiệp”. Do đó, khả năng xeri nano ngăn chặn quá trình này là một phát hiện mới quan trọng nhất và gây nhiều rắc rối nhất.

Đây là nghiên cứu đầu tiên về các ảnh hưởng của vật liệu nano đến cây trồng tiếp xúc qua đất.

Trong nghiên cứu thứ 2, được công bố trên Tạp chí Environmental Science & Technology, nhóm nghiên cứu đã cho rễ cà chua, bí xanh và đậu tương tiếp xúc với các thù hình của các bon (fullerene), đó là các vật liệu nano thông dụng sản xuất từ các bon tinh khiết. Vì dư lượng thuốc bảo vệ thực vật độc hại hòa vào đất rất lâu sau khi chúng được bón, do vậy, nhóm các nhà khoa học đã nghiên cứu tìm hiểu số lượng các thù hình không độc hại trong vùng rễ ảnh hưởng ra sao đến phản ứng của cây trồng với bất cứ dư lượng DDT phân hủy nào.

Khi các thù hình xuất hiện, cả 3 loại cây trồng nói trên đã loại bỏ được nhiều thuốc bảo vệ thực vật từ vật liệu trong đó chúng sinh trưởng, trong trường hợp này là các chất khoáng bón cây. Vì cây trồng không phát triển đến giai đoạn ra quả, do đó, các nhà nghiên cứu chưa biết chất ô nhiễm có tích tụ trong cây trồng không, “nhưng chắc chắn nó có trong hệ rễ”.

Nguồn vista.vn
Chia sẻ:

Tạo "dầu thô sinh học" từ tảo.

Tạo hóa phải mất nhiều triệu năm để biến sinh vật hữu cơ lâu năm thành dầu thô, nhưng nhóm các nhà khoa học tại trường Đại học Michigan (Hoa Kỳ) do GS Phil Savage đứng đầu đang biến tảo thành một dạng dầu thô sinh học trong thời gian ngắn.

Dầu thô sinh học

Được tài trợ bởi Quỹ KH&CN Quốc gia Hoa Kỳ, nghiên cứu của GS Phil Savage và các nhà khoa học trong nhóm của ông nuôi trồng tảo trong những ly lớn tại phòng thí nghiệm.

Mặc dầu nhiều công ty biến tảo thành nhiên liệu sinh học, nhưng quy trình của GS Phil Savage lại khác. Thay vì làm khô chúng trước khi chiết xuất dầu thiên nhiên, các nhà khoa học này bỏ tảo vào trong một ống kim loại có chứa nước và nấu bằng nồi áp suất ở những nhiệt độ cực kỳ cao.

GS Phil Savage nói rằng chỉ mất chưa đầy 60 giây đồng hồ để phá vỡ tất cả các thành tố của tảo, không phải chỉ có dầu mà còn các loại đường và protein có thể được sử dụng cho những hình thức năng lượng khác. Thời gian phản ứng ngắn cần thiết để tạo ra dầu thô sinh học và hiệu quả của tiến trình này, có thể cắt giảm tầm cỡ và chi phí cho các lò phản ứng biến tảo thành năng lượng. Trường Đại học Michigan hy vọng có thể lọc và thương mại hóa quy trình này.

GS Phil Salvage tin rằng dầu thô sinh học làm từ tảo có thể là một biện pháp thay thế hấp dẫn cho dầu sinh học lọc làm từ ngô và các sinh khối khác.

Nguồn NASATI 
Chia sẻ:

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

Kỹ thuật đọc thư không cần mở phong bì.

Một nhóm nhà khoa học ở Ý và Hà Lan đã phát triển thành công một kỹ thuật mới có thể nhìn xuyên thấu qua lớp vật liệu cứng mỏng, hứa hẹn một sự đột phá cho công nghệ nano, chụp ảnh y tế và hoạt động gián điệp.

Nhìn xuyên thấu

Kỹ thuật trên dựa vào việc sử dụng chùm tia laser và một loại máy tính giải mã. Nó đã được thử nghiệm thành công khi áp dụng vào việc quan sát vật đặt đằng sau lớp kính mờ mà mắt thường không thể nhìn thấy được rõ.

Ban đầu nhóm nghiên cứu dùng tia laser chiếu vào lớp kính mờ. (Các ánh sáng sẽ bị tán xạ, làm cho vật phía sau kính bị che khuất). Sau đó các tia sáng khuếch tán này được đưa lên máy tính phân tích và tái tạo lại hình ảnh vật bị che khuất phía sau kính. Kết quả cho thấy do ánh sáng bị tán xạ.

Với kĩ thuật này, các nhà khoa học hi vọng nó sẽ giúp ích nhiều cho công nghệ quét không xâm lấn trong y học và công nghệ nano, chẳng hạn như việc có thể nhìn thấy bên trong của một con chíp máy tính mà không cần phải mở nó ra.

Thậm chí kỹ thuật mới còn giúp ích cho cả công việc gián điệp. “Về nguyên tắc, bạn có thể đọc một lá thư mặc dù lá thư được dán kín trong phong bì, điều đó giúp ích nếu bạn là một điệp viên”, nhà khoa học Allard Mosk thuộc Viện Công nghệ nano tại Đại học Twente ở Hà Lan, đồng tác giả của nghiên cứu cho biết.

Mặc dù khắc phục được nhược điểm nhìn một phần vật ẩn của công nghệ nhìn xuyên thấu hiện tại nhưng kỹ thuật mới cũng có những hạn chế. Nó vẫn chưa thể nhìn được vật ẩn dưới lớp vật chất màu đen và cũng chưa thực sự hữu ích nhiều cho công việc nhìn trộm. Bởi vì khi ánh sáng laser rất dễ bị phát hiện ra.

Nguồn Báo Đất Việt
Chia sẻ:

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2012

Biến nước biển thành nước ngọt nhờ năng lượng mặt trời.

Biến nước biển thành nước ngọt nhờ năng lượng mặt trời  là kết quả nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học thuộc Viện Thủy điện và Năng lượng Tái tạo (Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam).


Máy tạo nước ngọt.


Theo đó, sau khi cấp nước vào bể chứa, nước biển được năng lượng Mặt trời đun nóng, bốc hơi và ngưng tụ trên bề mặt trong của tấm kính và chảy về một bể chứa nước sạch.

Nguyên lý hoạt động của thiết bị hoàn toàn bằng năng lượng mặt trời, không tốn chi phí năng lượng, không phát thải khí nhà kính, không có hóa chất, nước ngọt tạo ra không phải lọc lại mà sử dụng được ngay.

Với thiết bị này, các nguồn nước không uống được trực tiếp như nước biển, nước lợ, nước nhiễm phèn, nước ao, hồ, sông suối… có thể nhanh chóng biến thành nước ngọt.

Thiết bị có năng suất trung bình đạt hơn 6 lít/m2/ngày, tận thu được nước mưa trên mặt kính của thiết bị khi trời có mưa. Đặc biệt, thiết bị được chế tạo từ composite, có thể tháo lắp linh hoạt, phù hợp với mọi quy mô dân cư trên mọi địa hình, kể cả vùng hải đảo cách xa đất liền.
Nguồn Báo Đất Việt
Chia sẻ:

Thứ Hai, 5 tháng 11, 2012

Chế tạo bọt từ vỏ cây.

Các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Freiburg, Đức đã sử dụng vỏ cây để tạo ra bọt, một trong những bước đột phá sinh thái mới nhất trong khuôn khổ dự án Biofoambark.
Vỏ cây

Các nhà nghiên cứu đang cố gắng “xanh hóa” bọt cách điện sử dụng trong xây dựng bằng cách thay thế các nguyên liệu từ dầu mỏ bằng một hợp chất xuất hiện trong tự nhiên thường do ngành công nghiệp gỗ thải ra.

Nguyên liệu thô của bọt sinh học là tannin, một hợp chất có trong vỏ cây. Khi vỏ cây được xử lý thích hợp, nó có thể dùng để sản xuất bọt cứng không chỉ tốt để cách nhiệt cho các tòa nhà và được đúc thành các phụ tùng ô tô, mà còn có các tính chất chống cháy. Ngoài ra, bọt có thể thay thế polystyrene độc hại (thường được gọi là Styrofoam).

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu sẽ bổ sung cho bọt sinh học thêm một đặc tính nữa là chuyển đổi thành nhiên liệu sinh học khi nó sắp được vứt bỏ. Điều này sẽ làm tăng tính hữu dụng của nguyên liệu thô được sản xuất từ vỏ cây.

Nghiên cứu của trường Đại học Freiburg không phải là nỗ lực đầu tiên để sản xuất bọt sinh học từ chất thải hữu cơ. Trước đây, một nhà nghiên cứu tại Đại học Jerusalem đã từng nghiên cứu phương pháp sản xuất bọt từ chất thải của nhà máy giấy.

Nguồn NASATI
Chia sẻ:

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

Phát hiện hàng loạt loài nhện khổng lồ mới.

Một nhóm chuyên gia tìm thấy 9 loài nhện nhảy Tarantula sống trên cây ở miền trung và miền đông Brazil.

Nhện Tarantula

Rogerio Bertani - một chuyên gia về nhện tại Viện Butantan ở Sao Paulo, Brazil - đã công bố 9 loài nhện Tarantula mới, UPI đưa tin. Phần cuối chân của chúng có diện tích lớn, cho phép chúng bám vào nhiều loại bề mặt. Chúng sống trong rừng Amazon và khu vực phân bố của chúng thuộc miền trung và miền đông Brazil.

Nhện Tarantula sống trên cây phân bố tại một vùng nhiệt đới thuộc châu Á, châu Phi, Nam Mỹ, Trung Mỹ và vùng Caribbe. Đặc điểm chung của chúng là cơ thể dẹt hơn và chân dài hơn so với những loài nhện Tarantula sống trên mặt đất. Thân dẹt và chân dài giúp nhện Tarantula thích nghi với đời sống trên cây.

Trước đó giới khoa học đã biết 7 loài nhện Tarantula sống trên cây trong rừng ở Brazil. Với phát hiện của Bertani, tổng số loài nhện Taratula sống trên cây tại nước này tăng lên con số 16.

9 loài nhện mới phân bố trong những khu rừng với mật độ khá lớn. Nạn phá rừng và các hoạt động khác của con người khiến môi trường sống của chúng giảm dần theo thời gian. Ngoài ra màu sắc cơ thể chúng khá sặc sỡ nên chúng có thể trở thành mục tiêu của những người nuôi vật cảnh.
Nguồn vnexpress.net
Chia sẻ:

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Sản xuất năng lượng hạt nhân từ nước biển.

Các nhà khoa học tin rằng nghiên cứu 40 năm ròng về phương pháp sản xuất năng lượng hạt nhân từ Urani trong nước biển sắp cho kết quả.

Nước biển

Theo Hội Hóa học Hoa Kỳ, ước tính có ít nhất khoảng 4 tỷ tấn urani trong nước biển và nước biển có thể góp phần tăng sản lượng năng lượng hạt nhân. Đây là ý tưởng được trình bày tại Hội nghị và triển lãm quốc gia Hoa Kỳ lần thứ 244 ở Philadelphia.

Tiến sĩ Robin D. Rogers, tác giả của nghiên cứu này cho biết đại dương là nguồn trữ urani lớn hơn tất cả những mỏ urani trên cạn có thể khai thác được. Vấn đề ở chỗ, nồng độ chất này rất thấp nên chi phí chiết xuất sẽ cao.

Phân tích kinh tế của Tiến sỹ Erich Schneider cho Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (DOE) so sánh khai thác urani từ nước biển với các phương pháp khai thác quặng urani cho thấy, các kỹ thuật được DOE tài trợ có thể khai thác lượng urani nhiều gấp 2 lần so với sản lượng ở Nhật vào cuối thập niên 90. Vì vậy, chi phí sản xuất sẽ giảm đi gần 50% so với công nghệ của Nhật.

Tuy vậy, chiết xuất urani từ nước biển vẫn đắt hơn nhiều so với khai thác quặng. Cũng theo TS. Schneider, hiện không chắc chắn được về trữ lượng urani trên cạn nên khó có thể lập kế hoạch sản xuất dài hạn. Vì vậy, nếu khai thác urani từ nước biển thì sẽ khắc phục được hạn chế này đồng thời còn giảm một số tổn thất môi trường mà khai thác quặng gây ra như nước thải.
Nguồn thiennhien.net
Chia sẻ:

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Hợp chất mới giúp lọc nước nhiễm phóng xạ.

Báo Japan Times (Nhật Bản) dẫn tuyên bố của chuyên gia Tomihisa Ota, Đại học Kanazawa về hợp chất mới có khả năng phát hiện và kết tủa các chất phóng xạ trong nước.
Lọc nước nhiễm xạ.

Bào chế từ nhiều loại hóa chất và khoáng sản, hợp chất này có thể giúp loại bỏ các chất phóng xạ như iod, cesi hay stronti. Hợp chất mới này được hy vọng sẽ mở ra hướng đi mới giải quyết lượng nước chứa phóng xạ khổng lồ đang lưu trữ tại nhà máy điện Fukushima 1 sau sự cố hạt nhân.

Trong thí nghiệm mới nhất, sau khi đổ 1,5g hợp chất này vào 100ml nước có chứa cesi nồng độ từ 1 đến 10 phần triệu, chất này sẽ loại bỏ gần như hoàn toàn cesi. Mặc dù chất sử dụng pha trong nước chưa phải là chất phóng xạ, song ông Ota khẳng định hợp chất này có thể sử dụng để xử lý nước bị nhiễm phóng xạ do “chất thí nghiệm có cùng đặc tính hóa học với các chất phóng xạ”.
Nguồn yeumoitruong
Chia sẻ:

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

Nồng độ khí CO2 cao làm giảm khả năng nhận thức.

Khí cacbonic (carbon dioxide) từ lâu đã được biết đến là một trong các khí nhà kính gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Khí CO2

Tuy nhiên một nghiên cứu mới đây cho biết, ngoài tác hại trên, nồng độ cao khí cacbonic trong các lớp học, hội trường hay phòng làm việc còn làm giảm khả năng nhận thức và làm việc.

Việc đánh giá được thực hiện trên 22 người trưởng thành có sức khoẻ tốt. Khả năng làm việc của họ đã giảm xuống khi nồng độ cacbonnic được tăng từ mức 600ppm lên tới mức 1000ppm. Trong 7 cuộc kiểm tra, khả năng làm việc của những người này giảm xuống đáng kể khi nồng độ CO2 đạt mức 2500ppm. Các nhà nghiên cứu mới đây công bố trên Tạp chí khoa học về sức khoẻ môi trường của Mỹ (Environmental Health Perspectives).
Những số liệu này thật đáng ngạc nhiên vì các căn phòng có nồng độ CO2 là 1000ppm đã từng được coi là được thông gió tốt. Nồng độ CO2 trong các toà nhà thường cao hơn so với nồng độ CO2 ngoài trời (ở ngoài trời, nồng độ CO2 trong không khí vào khoảng 350 đến 450ppm). Nồng độ CO2 trong nhà ở mức 600ppm đã được coi là rất tốt. Tuy nhiên điều đó còn phụ thuộc vào có bao nhiêu người đang ở trong phòng và trong mỗi tiếng không khí trong phòng đó được trao đổi với không khí bao nhiêu lần (nhờ thông gió). Có rất nhiều toà nhà có nồng độ CO2 khoảng 2500ppm hoặc gần mức đó, thậm chí những toà nhà đó được thiết kế thông gió phù hợp với tiêu chuẩn hiện hành.

Tại Mỹ, các phòng học thường chứa rất nhiều sinh viên, và nồng độ CO2 trong các phòng học thường cao hơn 1000ppm. Để giảm chi phí sưởi ấm và làm mát, nhiều trường đã hạn chế thông gió, do vậy rất nhiều trường có nồng độ CO2 lên tới 2500ppm.

Các nhà nghiên cứu cho biết họ đã thấy nồng độ CO2 cao hơn liên quan đến việc tăng số học sinh trốn học và giảm khả năng học tập ở học sinh. Tuy nhiên họ chưa từng nghĩ CO2 là nguyên nhân.

Việc kiểm tra nồng độ CO2 là không khó. Các thiết bị đo nhanh cầm tay sẽ giúp kiểm tra nồng độ của chất khí này một cách nhanh chóng và chính xác.
Nguồn baomoitruong
Chia sẻ:

Lưu trữ Blog

Hướng dẫn thi công